Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Cớ sao Vàng nổi sóng

Trong khi các nhà lãnh đạo của khu vực EU cũng như các định chế tài chính trên thế giới đang nỗ lực giải cứu khủng hoảng nợ công tại các nước đồng tiền chung EURO thì nước Mỹ lại lao đao trong vấn đề nâng trần nợ công lên 14.300 tỷ đô.
Các quốc gia bên bờ Đại Tây Dương dường như chịu ảnh hưởng lẫn nhau khi một cơn bão xuất hiện. Dù rằng, vấn đề của Hy Lạp, Tây Ban Nha, Ý chỉ là nhưng cơn lốc mới nổi, EU có thể dập tắt và yên ổn. Tuy nhiên, nếu bên kia bán cầu, nước Mỹ vỡ nợ, đó sẽ là thảm của của EU và một nước mới nổi lên như một cường quốc – Trung Quốc.
Nếu nước Mỹ vỡ nợ, những khoản trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, các khoản đầu tư tài chính của Trung Quốc vào Mỹ trong thời gian qua sẽ trở thành đống giấy vụn. Các nhà đầu tư EU, Trung Quốc lo lắng họ sẽ trở thành những người buôn vịt giời. Điều đó có nghĩa rằng, chỉ cần một quyết định của hạ viện Mỹ trong việc từ chối thông qua quyết định trần nợ công của Mỹ thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ bổng mất tài sản.
Lo lắng là điều đương nhiên, không lo mới là lạ?!
Vậy làm thế nào để giảm thiểu mất tiền?
Bão nợ công bắt đầu đi vào khu vực phố Wall. Các sàn giao dịch trên khu vực này trở nên trồi trụt, tràn ngập sắc đỏ cho dù có những cáo cáo lợi nhuận 6 tháng đầu năm của các doanh nghiệp niêm yết. Các nhà buôn đang ngập ngừng. Hồi hộp và lo lắng.
Nếu không có những thông tin mang lại niềm tin cho các nhà đầu tư đối với thị trường Mỹ, có lẽ, họ sẽ tháo chạy để cắt lỗ trước khi cơn bão đến – họ mất hoàn toàn. Cuộc tháo chạy sẽ bắt đầu trên phố Wall, nó lan sang các khu vực khác. Đặc biệt, với tâm lý “kế chuồn là thượng sách” của người Trung Quốc, họ sẵn sáng bán tháo những khoản đầu tư của họ.
Vậy, dòng vốn mới sẽ đi vào đâu?
Hiển nhiên, vàng là nơi trú ẩn an toàn nhất khi các đồng tiền trên thế giới đang chống chọi với việc mất giá. Vàng sẽ là nơi an ủi phần nào cho các nhà đầu tư.
Tuần vừa qua, thị trường vàng Việt Nam thêm một lần nổi sóng. Giá vàng trong nước vượt ngưỡng 40 triệu/lượng. Vàng thế giới cũng tăng vèo vèo. Nhiều người bổng phất lên nhanh chóng, và nhiều người bổng chốc “vàng vọt” bởi vàng. Dẫu sao, đó cũng chỉ mới là một cơn sóng.
Làn sóng giá vàng ở Việt Nam không phải là do dòng vốn đầu tư chảy vào mà do đầu cơ. Người ta đầu cơ bằng cách thổi giá vàng lên, mua ồ ạt, truyền thông góp sức đồn thổi, thế là mấy con gà lại lao vào mua. Tấn trò đời lại hay, khi giá ổn định thấp thì không mua, khi nó lên cao lại mua. Khi giá lên đỉnh, các nhà đầu cơ sẽ bán ra, giá tụt dần. Chốt lời ngoạn mục.
Ái chà chà, mua đỉnh bán đáy thì kiểu gì mà chẳng thất bát sớm.

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011

Thiếu ở Hà Nội

Hôm nay suy nghĩ cứ vẩn vơ chuyện thắp hương nghĩa trang liệt sỹ. Có lẽ, đã thành một thói quen kể từ khi còn bé. Cứ đến 27-7 là ra nghĩa trang thắp hương.

Ở Hà Nội, hỏi và tìm mãi cũng rất khó có thể kiếm được một nơi để có thể thắp vài nén hương cho các liệt sỹ. Có cái đài tưởng niệm đối diện lăng Bác Hồ thì người ta đâu có cho thắp hương.

Thắp một nén hương những người đã khuất vì đất nước để thầm cảm ơn và nhớ tới thế hệ cha anh đi trước. Để trân trọng những người còn lành lặn hoặc thương tật nhưng đã trở về sau thời gian xung trân.

Một Hà Nội thân thương người đã khuất nhưng tìm một nơi để tưởng nhớ lại không dễ. Mong sao, một đài tưởng niệm ở trung tâm thành phố được dựng nên, để ngày ngày, người dân đi qua, thắp một nén hương tỏ lòng biết ơn hoặc cũng là một dấu hiệu để mọi người nhớ đến lịch sử của dân tộc.

27-7

Trong tâm trí tôi, rất ít miền quê trên tổ quốc Việt Nam như dải đất miền trung. Quê tôi, hầu như mỗi làng có một nghĩa trang liệt sỹ, chí ít, mỗi xã cũng có một nghĩa trang. Hồi còn học trò, mỗi lần đến ngày 27-7, tụi học trò bọn tôi lại được thầy cô dẫn lên viếng nghĩa trang liệt sỹ. Những ngày đó, nghĩa trang đầy nước mắt. Lớp 5 của tôi có đến hơn 10 người bạn có bố là liệt sỹ.

Hồi bà nội tôi còn sống, cứ mỗi độ tháng 7 về, bà lại đứng cạnh bàn thờ vuốt lại bao thư đã cũ. Bao thư được đặt trên bàn thờ từ năm 1972, bà tôi, chưa một lần đọc mà chỉ nhìn chăm chăm lên những con chữ với dòng bắt đầu “VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC BÁO TIN”.

Tôi đã từng đến nghĩa trang Trường Sơn ở Quảng Trị. Giữa chang chang nắng với ngút ngàn của dãy Trường Sơn, những nấm mộ trắng của các anh, các chị như hàng quân ra trận. Trên thế giới này, nghĩa trang Trường Sơn trở nên nổi tiếng, nổi tiếng bởi số lượng ngôi mộ cũng như số lượng mộ “LIỆT SỸ CHƯA BIẾT TÊN”.

Nhiều người đã bật khóc khi nhìn mãi, nhìn mãi đến tận chân núi vẫn là hàng mộ trắng. Giữa trưa hè nắng gió chỉ có tiếng dòng sông Bến Hải thì thầm hát, vẫn là tiếng rì rầm của dãy Trường Sơn như tiếng ru ời của sông núi.

Quê tôi, nghĩa trang Trường Sơn Ba Dốc nằm giữa ngọn đồi chang chang nắng. Những ngày này, nhiều người mẹ già chống gậy đến bên mộ con. Vẫn là những giọt nước mắt tiếc thương người con trẻ, tiếc thương với niềm hy vọng đoàn tụ. Nhiều mẹ, đã không còn nước mắt bởi hơn ba mươi năm rồi mẹ đã khóc vì nhớ con. Nước mắt giờ đã cạn khô, chỉ có lòng mẹ vẫn hoài nhớ thương.

Hàng năm, cứ đến ngày 27-7, trời rất nắng. Nắng rất trong như để soi đường cho các anh, các chị trở về. Nắng như trải lòng với tiếc thương của đồng bào.

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

Vàng

Vàng, xuống đi để anh gom nào.

Quê và Phố

Tôi yêu Hà Nội nhưng tôi nhớ quê. Nhớ đến quay quắt mảnh đất hẹp đầy nắng và gió, miên man cát trắng.
Tôi thích hoa sữa thơm ngát hương đêm nhưng tôi nhớ khi được nằm ngủ trưa dưới rặng phi lao trên đồi cát.
Tôi yêu Hồ Gươm lung linh trong ánh nắng sớm nhưng tôi thích được đắm mình trong lòng biển, sóng ầm áo, réo rắt gọi mời. Biển như đời người lúc êm dịu, lúc sục sôi. Tôi muốn được ngắm biển đêm hoặc bình minh. Đẹp kỳ lạ.
Tôi yêu mùa thu Hà Nội bởi những con gió heo may mơn man trên phố nhưng tôi thèm mùa thu quê nhà. Nắng mùa hạ còn sót lại vẫn khô nồng.
Tôi yêu những con phố Hà Nội, những con ngõ vắng yên bình nhưng tôi thèm được đi trên đường quê, ngửi hương lúa nếp đang mùa làm đòng. Thèm được đi qua triền cát trên con đường mang dấu chân của mẹ.
Tôi sinh ra trong một ngày mùa thu, vẫn nắng cháy nhưng có heo may. Ngày sinh tôi, mẹ gọi chị cả dắt mẹ qua triền cát để đến trạm xá.
Tôi lớn lên, hầu hết ở phố thị. Cái thị xã bé tẹo ngày nào giờ đã là thành phố.
Lớn lên, lang bạt phương trời, rồi trở lại Hà Nội. Nhưng hồn tôi, sâu thẳm trong những giấc mơ vẫn là buổi trưa hè trên cát, những mùa đông bên bếp than hồng, những mùa thu rộn ràng trống trường cùng tiếng ê a đọc chữ. Nơi tình người vẫn mộc mạc, nơi giọng quê vẫn chắt chui nghĩa tình.
Tôi già quá rồi chăng để luôn phải hoài niệm? Tôi mệt mỏi với đô thành rồi chăng khi cứ nhớ mãi những yên bình ấu thơ?

Thứ Tư, 13 tháng 7, 2011

Nghịch nước





Posted by Picasa

Tháng 7 về

Tháng 7 về nhẹ nhàng, không ồn ả như ngày vào hạ của tháng 6. Phía sau những cơn mưa rào còn sót lại của tháng là mùi nắng hạ khô nồng của tháng 7. Vương vấn còn lại một nhành phượng hồng, mấy khóm bằng lăng như lẻ loi giữa cái nắng chói chang tháng 7.

Mẹ tôi hay mắng “lúc mô không về, cứ tháng 7 nắng khô người lại về quê”. Tôi đi xa đã lâu cứ vào tháng 7 lại nhớ nôn nao hương gió Lào thổi hun hút qua cánh đồng khô cháy. Mùa này, vườn chuối sau nhà bắt đầu đơm nải, những trái chuối tròn mũn đang chờ ngày rằm tháng 7.

Tôi hay về quê vào tháng 7, về để thấy triền cát mênh mang, nghe rặng phi lao rì rào theo sóng. Giữa trưa hè oi nồng chợt thoảng mùi hương trầm.

Quê tôi, tháng 7 là bắt đầu mùa tạ ơn. Những ngày đầu tháng 7 dương lịch mẹ đã làm mấy mâm cơm để tạ ơn những người lính, những người đã ngã xuống trong chiến dịch Thành Cổ. Ông bà ngoại tôi có người con đã ngã xuống khi cuộc chiến thành cổ đã qua 80 ngày, còn 1 ngày nữa là rút quân. Cha tôi thường nói, con đường trước nhà, năm 1972 đêm nào cũng có bước quân đi qua, xe bộ đội chạy rầm rập. Ngày thì bị bom cày nát, dân công, thanh niên xung phong tối lại san lấp làm đường.

Những người lính trẻ, từ phía bắc vào mang theo lòng nhiệt huyết và ý chí thống nhất đất nước. Các anh đi nhưng chưa trở về. Các anh ở lại với dòng Thạch Hãn, với đất và người miền Trung – gan góc trong khô cằn.

Hồi bé, cha tôi dạy đọc mấy câu thơ của người lính Lê Bá Dương:

“Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ.
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước.
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”

Tháng 7 về, mùa Vu Lan báo hiếu. Khi nắng hạ còn vấn vương trong giăng mắc làn mưa ngâu, gió mang chút heo may qua ngọn mía sau vườn thì mẹ tôi lại về quê. Dù có bận bịu với ruộng vườn, con nhỏ nhưng mẹ vẫn sắp xếp về quê. Mẹ sửa soạn mân cơm rồi đặt lên bàn thờ để tại ơn đấng sinh thành, cả gian nhà ngát mùi hương trầm.

Quê tôi, tháng 7 về không gọi là mùa Vu Lan mà chỉ gọi là ngày rằm tháng 7. Tháng 7 giữa mảnh đất cát trắng gió lào nên mâm cỗ chỉ là mấy trái cây trong vườn và mâm xôi đầy. Mẹ thường sửa soạn trong đêm hôm trước để sớm mai chọn mấy quả đẹp nhất để dọn mâm. Hồi bé, mẹ hay bảo “rằm ni sắm ít lại để dành tiền mua sách cho các chị”. Xong lễ cúng, tụi trẻ bọn tôi được mẹ phân công mang hoa quả đi biếu nhà hàng xóm.

Cũng lạ, cứ mùa rằm tháng 7, nơi quê tôi lại chuẩn bị tiễn nhiều tân sinh viên lên đường ra bắc, vào nam học tập. Nhà ai có con đi đại học, cả làng như mừng vui. Ngày tôi đi Hà Nội nhập học, cha bảo “cây ổi sau nhà ra quả trái mùa, rằm năm sau về biếu họ nhé”. Có bác hàng xóng mang cho tôi mấy quả xoài cát, thơm lắm.

Gần 20 năm tôi rời quê, cha mẹ già vẫn chung tình với mảnh đất đầy gió. Cứ tháng 7 về, lòng chợt miên man nhớ mùi hương trầm.

Về thôi, về để còn thấy lòng mình vấn vương quê nhà, về để miên man theo gió heo may qua triền cát, để thấy mẹ cha vẫn ươm vườn rau sau mùa khô hạn.